Đại hội Đảng XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”(1); coi đây là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII đã có sự phát triển mới so với Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), nhấn mạnh yếu tố chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính. Đây là các giá trị cốt lõi mà nền tư pháp Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần đạt được, đồng thời là sự cụ thể hóa yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra.

Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân

Xây dựng nền tư pháp "chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân" là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - Ảnh minh họa: internet

Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để đạt được mục tiêu nêu trên, việc xây dựng nền tư pháp Việt Nam cần tập trung vào các yếu tố hợp thành, gồm: thể chế tư pháp; thiết chế (tổ chức bộ máy) tư pháp và bổ trợ tư pháp; đội ngũ cán bộ tư pháp; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ… bảo đảm cho hoạt động tư pháp; ý thức pháp luật về tư pháp. Trong thời gian qua, nền tư pháp Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng:

Thứ nhất, thể chế tư pháp được quan tâm xây dựng và ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, công khai, dân chủ, nghiêm minh trong hoạt động tư pháp

Các cơ quan có thẩm quyền đã xây dựng, sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật lớn, quan trọng trong lĩnh vực tư pháp, phù hợp với tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ năm 2005 đến năm 2020, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 53 luật, 19 pháp lệnh liên quan đến lĩnh vực tư pháp; Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản áp dụng pháp luật, chỉ đạo triển khai thực hiện.

Thứ hai, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp được đổi mới, kiện toàn, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân được xây dựng và hoàn thiện theo mô hình 4 cấp; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện, mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa, coi trọng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, từng bước thực hiện công khai các bản án (tính đến nay, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao đã đăng tải 1.019.067 bản án, quyết định của tòa án các cấp)(2). Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều án lệ và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Ngoài việc đổi mới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thì thủ tục tố tụng tư pháp tại tòa án cũng được hoàn thiện và cải cách mạnh mẽ theo hướng tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý, như hình thành chế định gửi, nhận đơn, khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử…

Thứ ba, tổ chức và hoạt động của luật sư, công chứng, giám định được quan tâm xây dựng, ngày càng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại

Tổ chức, hoạt động của luật sư đã có bước phát triển và đạt nhiều kết quả; đội ngũ luật sư phát triển cả về số lượng và chất lượng; dịch vụ luật sư ngày càng đa dạng với chất lượng được nâng lên, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng, làm tăng tính dân chủ, công bằng tại các phiên tòa, giảm việc kết án oan, sai, qua đó đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. 

Giai đoạn từ năm 2009 đến 31-12-2020, đội ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia 158.201 vụ án hình sự, 132.602 vụ việc dân sự, 58.371 vụ việc tư vấn trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, thương mại, 9.672 vụ án hành chính, 2.578 vụ án lao động; tư vấn pháp luật 762.935 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng 32.020 vụ việc; các dịch vụ pháp lý khác 112.371 vụ việc(3)

Hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập (pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự), các tổ chức giám định tư pháp trong và ngoài Nhà nước ở một số lĩnh vực (tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật...) tiếp tục được củng cố, kiện toàn và phát triển.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp được quan tâm xây dựng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao uy tín của nền tư pháp Việt Nam

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, cán bộ tư pháp được quan tâm; hệ thống các cơ sở đào tạo luật phát triển nhanh về số lượng, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ pháp luật của các cơ quan tư pháp và xã hội. Xây dựng và triển khai thực hiện đề án “các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”, “trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”. Công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giáo dục chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm và chế độ, chính sách tiền lương đối với cán bộ tư pháp được quan tâm. 

Thứ năm, cơ sở vật chất cho tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp ngày càng được bảo đảm tốt hơn

Việc bảo đảm nguồn lực cho hoạt động tư pháp đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện, từng bước đầu tư cơ sở vật chất và tăng nguồn kinh phí theo lộ trình. Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho lĩnh vực tư pháp tăng tỷ lệ bình quân 5% - 8% mỗi năm (tăng chi ứng dụng công nghệ thông tin, chi vận hành trụ sở mới, thuê trụ sở đối với trụ sở xuống cấp). 

Chế độ, chính sách đối với cán bộ tư pháp có nhiều đổi mới; kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được tăng lên. Kinh phí mua sắm tài sản, trang thiết bị và phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp được quan tâm thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Ngân sách dành cho các cơ quan tư pháp nhìn chung đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tư pháp, bước đầu đã đưa lại hiệu quả thiết thực. 

Thứ sáu, đổi mới nội dung, phương thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp

Cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng đảng, công tác tổ chức, cán bộ trong các cơ quan tư pháp; phân công đồng chí cấp ủy có trình độ chuyên môn, năng lực, uy tín làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Chánh án tòa án nhân dân các cấp. Tái lập, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nội chính Trung ương và Ban Nội chính tỉnh ủy, thành ủy. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động nói chung, trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc nói riêng, tạo điều kiện để các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý kịp thời, chính xác, nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật và quy định của Đảng, khắc phục tốt hơn tình trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình xây dựng nền tư pháp Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân vẫn còn những tồn tại, hạn chế.

Một là, công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự và tổ chức, hoạt động tư pháp chưa thực sự phù hợp với những yêu cầu khách quan của đời sống xã hội và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một số quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, bổ trợ tư pháp còn bất cập, thiếu đồng bộ, khó thực hiện, hạn chế khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. 

Hai là, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp còn một số hạn chế. Hệ thống tòa án chưa thực sự được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, hai cấp tòa án vẫn gắn với đơn vị hành chính (cấp tỉnh, huyện) nên ảnh hưởng nhất định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp. Một số chủ trương, định hướng về cải cách tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tư pháp nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chưa thực sự hiệu quả; có chủ trương chưa triển khai thực hiện được do còn nhiều ý kiến khác nhau. Bộ máy cơ quan điều tra vẫn được tổ chức ở nhiều cơ quan khác nhau; bộ máy cơ quan điều tra ở Trung ương còn lớn. 

Ba là, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và khu vực. Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, chưa đồng đều; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp còn thiếu, chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế; chế độ, chính sách còn bất cập, chưa phù hợp với tính đặc thù và trách nhiệm pháp lý trong hoạt động tư pháp; chưa thu hút được những người giỏi vào các cơ quan tư pháp, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội nhiều khó khăn. Một số cán bộ sai phạm, vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, làm suy giảm niềm tin, sự tín nhiệm của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Bốn là, cơ sở vật chất, kinh phí cho các cơ quan tư pháp chưa bảo đảm. Cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan tư pháp chậm đổi mới; nguồn đầu tư công phân bổ cho hệ thống cơ quan tư pháp hằng năm và trong giai đoạn trung hạn 2005 - 2020 chưa đáp ứng đủ nhu cầu của cơ quan tư pháp. Trụ sở làm việc của một số cơ quan tư pháp chật hẹp, chưa đáp ứng tiêu chuẩn, định mức để bảo đảm điều kiện làm việc; nhiều nơi được xây dựng từ lâu, hiện đã xuống cấp.

Năm là, sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp có lúc, có nơi còn biểu hiện buông lỏng hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động nghiệp vụ tư pháp; công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao.

Để triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” và các chủ trương, quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền tư pháp Việt Nam và Kết luận số 84-KL/TW ngày 29-7-2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong thời gian tới cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp

Xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp; không để xảy ra tình trạng cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp; tăng cường kiểm tra việc thực hiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc, vụ án quan trọng, phức tạp. 

Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tư pháp; chăm lo công tác đào tạo, bố trí cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức đảng phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp. 

Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, tạo lập đầy đủ cơ sở pháp lý để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; đề cao hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện, khắc phục tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự và bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

Hoàn thiện pháp luật về dân sự, bảo đảm phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế số; sự an toàn, thông thoáng, công bằng trong các quan hệ dân sự cũng như trong giải quyết vụ việc dân sự; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và lợi ích công cộng; giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh liên quan đến sự phát triển của khoa học, công nghệ, các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp phi truyền thống. 

Hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp, bảo đảm tính dân chủ, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và tăng khả năng tiếp cận công lý của người dân, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. 

Hoàn thiện pháp luật thi hành án, nghiên cứu xây dựng Bộ luật thi hành án; đổi mới phương thức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án; tăng cường xã hội hóa thi hành án, nghiên cứu mở rộng hình thức, đối tượng thi hành án hình sự tại cộng đồng. Xây dựng hệ thống pháp luật về tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. 

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp đồng bộ với pháp luật về tố tụng tư pháp, phát huy vai trò của chế định bổ trợ tư pháp trong nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi huy động các nguồn lực xã hội để phát triển hoạt động bổ trợ tư pháp. 

Thứ ba, tập trung xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, uy tín, hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền của Tòa án nhân dân, cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với khiếu kiện hành chính; hoàn thiện tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của các tòa án, nhất là các tòa án sơ thẩm; nghiên cứu thành lập các tòa án rút gọn, tòa án giản lược để xét xử các vụ án hình sự ít nghiêm trọng, các tranh chấp có giá trị không lớn với cơ chế lãnh đạo, quản lý phù hợp. 

Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự và hoạt động trinh sát; phù hợp với mô hình tổ chức của viện kiểm sát, tòa án. 

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, trọng tâm là xây dựng đội ngũ thẩm phán có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo cán bộ tòa án và đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán; thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng nghề, cập nhật kiến thức mới về pháp luật và những vấn đề liên quan đến hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp. 

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển chọn thẩm phán từ nguồn luật sư và cán bộ có trình độ chuyên môn cao thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo đảm thẩm phán phải là những người ưu tú, có phẩm chất, năng lực và uy tín cao trong số những người làm việc trong lĩnh vực pháp luật. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp trong lĩnh vực pháp luật quốc tế.

Thứ năm, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí phù hợp với đặc thù của hoạt động tư pháp

Tăng cường kinh phí, từng bước hiện đại hóa trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện làm việc thiết yếu, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 

Xây dựng tòa án điện tử, tiến tới tòa án số ở Việt Nam nhằm chuyển một phần hoạt động của tòa án từ không gian thực lên không gian số, tiến hành trên nền tảng số một số hoạt động như: quản trị nội bộ tòa án; công khai hoạt động của tòa án; cung ứng cho người dân các dịch vụ tư pháp công; hỗ trợ các tiện ích nâng cao hiệu quả hoạt động của các chức danh tư pháp; kết nối và khai thác cơ sở dữ liệu của nền tảng số quốc gia; tiến hành các hoạt động tố tụng điện tử; qua đó hỗ trợ thẩm phán ra phán quyết chính xác; tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí của người dân; tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án và để kết nối với các nền tảng số khác…

 

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.149.

(2) Xem: https://congbobanan.toaan.gov.vn/6tatcvn/Thong-ke

(3) Xem: Dự thảo Báo cáo công tác nhiệm kỳ II (2015-2020) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

TS TRỊNH THANH TÂM

 

Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Xây dựng nền tư pháp "chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân" là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - Ảnh minh họa: internet Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để đạt được mục tiêu nêu trên, việc xây dựng nền tư pháp Việt Nam cần tập trung vào các yếu tố hợp thành, gồm: thể chế tư pháp; thiết chế (tổ chức bộ máy) tư pháp và bổ trợ tư pháp; đội ngũ cán bộ tư pháp; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ… bảo đ

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn