Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội ưu việt hơn về chất so với chủ nghĩa tư bản, nhưng chưa có sẵn mô hình trong lịch sử nên vừa xây dựng, vừa tìm tòi nên sẽ phức tạp, khó khăn và diễn ra lâu dài. Ở những nước có điểm xuất phát thấp như Việt Nam, từ nước thuộc địa nửa phong kiến giành được độc lập dân tộc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì càng khó khăn, lâu dài, phức tạp.

Bàn luận về những nguy cơ và thách thức đối với  thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Bàn luận về những nguy cơ và thách thức đối với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 

Bàn luận về những nguy cơ và thách thức đối với  thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

(LLCT) - Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội ưu việt hơn về chất so với chủ nghĩa tư bản, nhưng chưa có sẵn mô hình trong lịch sử nên vừa xây dựng, vừa tìm tòi nên sẽ phức tạp, khó khăn và diễn ra lâu dài. Ở những nước có điểm xuất phát thấp như Việt Nam, từ nước thuộc địa nửa phong kiến giành được độc lập dân tộc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì càng khó khăn, lâu dài, phức tạp.

Ðảng ta luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn về tương lai của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. (Ảnh minh họa: Tuyengiao.vn)

Thực tế hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy nhiên cũng xuất hiện những nguy cơ và thách thức không nhỏ.

Trước hết, cần xác định phương pháp luận để giải quyết vấn đề những nguy cơ và thách thức đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Chúng ta phải đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và gắn với thực tiễn đang diễn ra thì mới tránh được sự phiến diện, áp đặt chủ quan. Việt Nam kiên định tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù là phải trải qua hình thức quá độ gián tiếp, rút ngắn và chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, phải khắc phục trong thời gian lâu dài. Vì thế, phải vận dụng quan điểm, phương pháp luận mácxít để phân tích những nguy cơ và thách thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  thì mới thấy rõ tính chất và có giải pháp đúng đắn. Trung thành, thẳng thắn và nắm vững quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đánh giá tình hình thực tế  là “…nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, trong đó cần đánh giá đúng những nguy cơ và thách thức đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, cần xuất phát từ quan điểm thực tiễn để đánh giá cho sát thực tế đang diễn ra, theo phương châm không coi nhẹ những thách thức đến từ bên ngoài, song luôn phải coi những nguy cơ đến từ bên trong sẽ là nguy cơ trực tiếp đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, về nguy cơ và thách thức từ bên ngoài là từ “toàn cầu hóa về kinh tế theo lối tư bản chủ nghĩa”, “diễn biến hòa bình” và “dùng sức mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan” của các nước lớn cùng các thế lực thù địch để chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán khẳng định: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”, trong đó có cả nguy cơ từ bên trong, cả từ nguy cơ bên ngoài: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”. Trong đó nguy cơ và thách thức từ bên ngoài gắn kết giữa bốn vấn đề cùng tác động đó là: “toàn cầu hóa về kinh tế theo lối tư bản chủ nghĩa”, “diễn biến hòa bình” và “chủ nghĩa dân tộc cực đoan”, “sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn”, cùng với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch ra sức chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay thì mới thấy tính chất phức tạp. Sự gắn kết giữa bốn nguy cơ sẽ phản ánh đầy đủ hơn tác động xấu trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Nước ta đã giành được độc lập dân tộc, nhân dân có chính quyền nhưng vấn đề giữ chính quyền vẫn đang được đặt ra một cách thường xuyên vì có những thế lực thù địch đang muốn lật đổ chính quyền cách mạng, đặt lại ách nô dịch dưới những hình thức mới, bằng tất cả những thủ đoạn vũ trang và phi vũ trang. Chúng ta vẫn không loại trừ khả năng trước nguy cơ của ách nô lệ mới là phụ thuộc về kinh tế dẫn đến phụ thuộc về chính trị, vì các nước tư bản vẫn là những nước đang chiếm ưu thế về vốn và khoa học công nghệ hiện đại. Vì vậy, thách thức và nguy cơ lớn nhất của nước ta trên con đường phát triển kinh tế trong điều kiện sức cạnh tranh của chúng ta còn nhiều hạn chế, song phải tham gia xu thế khách quan là sân chơi “toàn cầu hóa, đặc biệt là toàn cầu hóa về kinh tế”.

Ở thời kỳ của C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhận định: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối quan hệ ở khắp nơi”. Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới. Nó làm cho công nghiệp mất cơ sở dân tộc. Những ngành công nghiệp dân tộc cũ đã bị tiêu diệt và đang ngày càng bị tiêu diệt. Những ngành công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mới. Trong điều kiện hiện nay, xu thế này vẫn đang tiếp diễn, và nó mang lại những nguy cơ đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Bởi lẽ, những ngành công nghiệp mới sẽ không dùng những nguyên liệu của nước bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những nước tư bản trên khắp châu lục và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên toàn cầu. Thay cho tình trạng bị cô lập trước đây, đến nay có sự phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Cho nên tính chất đơn phương về kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc sẽ dễ bị phá vỡ và xu thế hội nhập văn hóa thế giới diễn ra rất mạnh mẽ. Đây là nguy cơ và thách thức rất cơ bản, không nhỏ và lâu dài đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cũng như những năm tiếp theo.

Cần phải chỉ ra rằng, thế giới ngày nay chưa phải là thế giới đại đồng, trong sân chơi toàn cầu hóa thì các nước tư bản lớn vẫn là nước được hưởng lợi. Các thế lực áp bức dân tộc vẫn tồn tại, chủ nghĩa thực dân chỉ thay đổi hình thức tinh vi và xảo quyệt hơn. Vì vậy, cần phê phán quan điểm một chiều cho rằng xu hướng khách quan là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, nên khẩu hiệu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã hết thời và không cần thiết. Cần phải phân tích như Báo cáo chính trị, nêu lên dự báo tình hình thế giới những năm sắp tới: “Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực”.

Trong khi đó, với chiến lược “diễn biến hòa bình” và sự gia tăng ảnh hưởng của “chủ nghĩa dân tộc cực đoan”, các thế lực thù địch đang sử dụng rất nhiều âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc nhằm đạt được mục tiêu làm cho Việt Nam suy yếu phải phụ thuộc vào nước lớn và làm thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Sự tác động cộng hưởng của ba yếu tố nêu trên trong điều kiện hiện nay là rất lớn, trở thành những nguy cơ và thách thức tiềm ẩn, vừa trực tiếp, vừa lâu dài cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam…Cơ sở hình thành nguy cơ này là dựa vào tương quan so sánh lực lượng, ưu thế của nước lớn, sự phát triển của nhân tố thời đại và từ yếu kém từ bên trong của chúng ta trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để kích hoạt chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân là những mảnh đất màu mỡ tạo ra đạo quân chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa từ bên trong.

Thứ ba, ba nguy cơ và thách thức từ bên trong nước đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán khẳng định các nguy cơ và thách thức từ trong nước đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “… nguy cơ tụt hậu xa về hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới”; “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức”; “sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí”. Các nguy cơ và thách thức từ bên trong mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra là rất thẳng thắn, sát thực tế và không bao che sự thật. Song vấn đề đặt ra là cần nhận thức cho đầy đủ, bao quát hơn, thực chất hơn về sự cộng hưởng, cùng tương tác của các nguy cơ và thách thức đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì mới thấy tính chất nguy hiểm của nó. Bởi lẽ, đây là những nhân tố diễn đạt ở những khía cạnh cụ thể, nhưng điểm chung nhất là bắt nguồn từ “sự suy thoái yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng”, là sản phẩm tàn dư của con người cũ để lại chưa được khắc phục triệt để chứ không phải là lực lượng nào xa lạ.

Thứ tư, biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích và không kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng. 

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta đã chỉ ra biểu hiện thứ hai của suy thoái về tư tưởng chính trị là: “Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”. Điều này trái lại với vị thế, sứ mệnh và không xứng đáng là người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ của Đảng đã khẳng định, mỗi đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên: Thứ nhất, phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, không kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái: “kiến nghị đổi tên Đảng”, cổ súy cho “đa nguyên chính trị”; áp đặt quan điểm cho rằng “còn độc tôn lãnh đạo của Đảng thì còn mất dân chủ, mất tự do và đất nước không phát triển, còn nghèo khổ”; nước ta đã bị đổi màu chế độ xã hội, không còn “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; “Việt Nam lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử”; “nhà nước nào, chế độ nào cũng được miễn là dân giàu, nước mạnh”… 

Hình thức thể hiện quan điểm cũng rất đa dạng như thể hiện tâm trạng băn khoăn, thư ngỏ, góp ý, thông qua loại hình thơ văn, để thể hiện tâm huyết cá nhân mong muốn làm cho dân ta giàu, nước mạnh thoát khỏi đói nghèo…Họ sử dụng cụm từ “sai lầm lịch sử” của việc lựa chọn con đường cách mạng ở nước ta, hay quan điểm mập mờ, giả nhân giả nghĩa, thiếu trách nhiệm đã cho rằng: “Nhà nước nào, chế độ nào cũng được miễn là dân giàu, nước mạnh”. Nhìn hình thức thể hiện có vẻ khách quan, trung lập trong lựa chọn chế độ chính trị xã hội và thái độ của họ đối với loại hình nhà nước mà chúng ta đang xây dựng. Thực chất đây là quan điểm thể hiện sự cổ xúy cho ý đồ của các thế lực thù địch về chủ đề “sai lầm lịch sử”, gây mất niềm tin của nhân dân ta đối với công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Trên thực tế, một số cán bộ, đảng viên đã phụ họa theo quan điểm sai trái, thù địch lên án: “Việt Nam lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sai lầm lịch sử” là một mũi tiến công nhằm hạ bệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng cộng sản trong đời sống của nhân dân ta. Hiện tượng đó diễn ra sẽ là mảnh đất để các thế lực thù địch lợi dụng những cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trở thành lực lượng cốt cán chống phá từ bên trong nhằm thực hiện mưu đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cho chúng ta tự suy yếu và tự sụp đổ… Đây là kịch bản mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, chống phá cách mạng nước ta nói riêng hòng làm đổi màu chế độ chính trị của nước ta.

Nguyên nhân của việc xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cần phải được xem xét khách quan, toàn diện và cụ thể. Muốn làm rõ nguyên nhân của hiện tượng trên đây, thì trước hết cần nhìn nhận cho đúng mối quan hệ giữa ba hiện tượng tham ô, tham nhũng với hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Xét về cấp độ phạm vi thì hiện tượng tham ô, tham nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên là những hạn chế yếu kém nảy sinh từ bên trong, còn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng để kích động làm suy yếu nội bộ của chúng ta.

Xét về nguyên nhân chủ quan của hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, không kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số cán bộ, đảng viên thì cần suy xét từ góc độ lợi ích kinh tế cá nhân mang nặng chủ nghĩa thực dụng và nhóm lợi ích. Tức là khi họ đề cao lợi ích cá nhân thì bao giờ cũng coi nhẹ lợi ích tập thể, làm giàu bất chính bằng con đường tham ô, tham nhũng ở một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền thì sẽ còn tồn tại song hành hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị. Bởi lẽ, mọi hiện tượng xã hội nảy sinh đều có nguồn gốc từ kinh tế, lợi ích kinh tế. Trong xã hội còn có sự phân chia giai cấp, tồn tại nhà nước thì tệ nạn tham ô, tham nhũng còn tồn tại, mức độ đến đâu tùy thuộc vào bản chất giai cấp của Nhà nước đó. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó, nếu hiện tượng tham ô, tham nhũng của cán bộ, đảng viên còn diễn ra thì hệ quả để lại rất to lớn và khó lường. Hệ quả của hiện tượng tham ô, tham nhũng sẽ dẫn đến hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và ngược lại.

Xét về nguyên nhân khách quan của hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, không kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số cán bộ, đảng viên: Thứ nhất, họ có nguồn gốc xuất thân đa dạng từ các thành phần xã hội khác nhau trở thành đảng viên của Đảng, nhưng do không có bản lĩnh chính trị vững vàng; không coi trọng học tập lý luận chính trị, rèn luyện và thấm nhuần phẩm chất đạo đức của người cách mạng nên chưa nhận thức sâu sắc mục tiêu lý tưởng và những khó khăn lâu dài của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã lựa chọn. Thứ hai, do tác động từ khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu; những khó khăn thách thức của các nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Thứ ba, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Về phương thức chúng sn sàng mua chuộc, lôi kéo, hậu thuẫn, trợ giúp những cán bộ, đảng viên đã bị thoái hóa biến chất để họ kích động quần chúng, hình thành “phe”, “nhóm” đối lập, tạo dựng “ngọn cờ dân túy, gây sức ép buộc ta từng bước nhượng bộ, tiến tới thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và lật đổ chế độ nhanh chóng hơn… Những nguy cơ và thách thức đó cùng với sự vận động của thực tiễn mới cần phải tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cho phù hợp là tất yếu.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng (Ảnh : Tư liệu)

Một là, cần nắm vững tính phổ biến, tính đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tính phổ biến còn được gọi là cái chung, tính đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn được gọi là cái riêng. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, luôn ở trạng thái vận động cho nên việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này vừa phải bảo đảm tính lịch sử, cụ thể và phát triển. Cái chung hay là cái phổ biến của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần hiểu theo hai cấp độ: Một là, cái phổ biến của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà các nhà kinh điển Mác - Lênin bàn trong lý luận phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tính phổ biến của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thể hiện quy luật chung, là thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn và phù hợp với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Hai là, cái phổ biến còn được hiểu ở cấp độ thực tế tồn tại của mô hình hiện thực thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà các nước ra đời trước đã xác lập trên cơ sở nhận thức lý luận chung của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra để thiết kế mô hình ở nước mình.

Cái riêng hay cái đặc thù cũng nên hiểu theo ba góc độ: Một là, cái đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nhận thức của mỗi nước về quan điểm lý luận, các quy luật chung để thực hiện trong thời kỳ quá độ mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra để vận dụng vào điều cụ thể của nước mình. Thứ hai, cái đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn nên hiểu cấp độ thực tế là mô hình cụ thể của các nước ra đời sau lựa chọn là tự tìm kiếm con đường, mô hình, đặc trưng có tính độc lập, sát thực tiễn của đất nước hoặc gắn với tư tưởng sáng tạo của lãnh tụ, của Đảng cộng sản cầm quyền. Ba là, nước xã hội chủ nghĩa ra đời sau không dập khuôn máy móc theo con đường, mô hình thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước đã ra đời trước… Như vậy xét về lý luận, xét về bản chất thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ có một nhưng xét về mô hình thực tế thì có thể rất đa dạng phong phú đòi hỏi các chủ thể cần nhận thức, tổ chức hiện thực tránh chủ quan duy ý chí, giáo điều và áp đặt thì mới đem lại thành công.

Trên cơ sở luận giải mối quan hệ, biểu hiện của tính phổ biến và tính đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên đây để chúng ta tránh có nhận thức giản đơn và cứng nhắc về nó. Sự dập khuôn máy móc, giáo điều, đề cao mô hình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước mình để áp đặt cho nước khác hoặc đề cao tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc thù và ngược lại đều là những biểu hiện dễ dẫn đến sai lầm. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì phải xem xét tính phổ biến, tính đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải rất cụ thể, luôn có sự vận động phát triển vì ở mỗi giai đoạn có những điều kiện khách quan, chủ quan và thuận lợi, khó khăn khác nhau. 

Tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Hai là, nắm vững những thành tựu cơ bản của việc vận dụng tính phổ biến và tính đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực từ sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, trở thành hệ thống trên thế giới từ sau năm 1945. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa là một thực tế không mong muốn nhưng không thể phủ nhận sạch trơn thành tựu to lớn đã đạt được trong việc vận dụng tính phổ biến và đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa. Vận dụng tính phổ biến của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức đúng về đặc trưng bản chất về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra. Những quy luật, nguyên lý cách mạng phổ biến mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, song cần phân định cho rõ một số luận điểm mà lịch sử vượt qua thì cần bổ sung cho phù hợp với mỗi quốc gia thì mới giành thắng lợi, nếu không sẽ mắc phải căn bệnh giáo điều.

Ba là, nắm vững những hạn chế của việc vận dụng tính phổ biến, tính đặc thù trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước hết, còn xơ cứng, giáo điều, không cụ thể hóa vào tổ chức xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, trên lĩnh vực kinh tế, nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển kinh tế thị trường với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; ba là,trên lĩnh vực văn hóa, chưa thấy rõ vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại; bốn là, chưa gắn kết giữa nhiệm vụ cải tạo với xây dựng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực xã hội; năm là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế mà đặc biệt với các nước có chế độ chính trị là tư bản chủ nghĩa nhưng hiệu quả không cao Đó là những cản trở lớn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mang tính đặc thù như ở nước ta hiện nay.

Bốn là, một số nội dung đề xuất bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa  Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

 Về độ dài, sự phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần cụ thể thành các chặng đường cho rõ hơn nữa; phát huy sức mạnh của các nhân tố thời đại (trong đó có cần coi trọng kế thừa và phát huy giá trị thành tựu của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội); thường xuyên phát huy phong trào thi đua ái quốc của quần chúng nhân dân lao động tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi trọng quá trình cải tạo xã hội mà đặc biệt là cải tạo con người; kiên quyết thanh lọc những cán bộ, đảng viên bị thoái hóa biến chất đã lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng và xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng - những cán bộ, đảng viên còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm và buôn bán chính trị…

Nhận thức và xử lý hiệu quả những cản trở, vận dụng tốt các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; khắc phục kịp thời những yếu kém trong công tác quản lý xã hội và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy tốt các nguồn lực và tận dụng tốt thời cơ để phát triển đất nước. Với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ khơi dậy khát vọng của toàn dân tộc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

                                                        Đại tá, PGS.TS Lưu Ngọc Khải

                        Viện KHXH&NVQS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

  Bàn luận về những nguy cơ và thách thức đối với  thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay (LLCT) - Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội ưu việt hơn về chất so với chủ nghĩa tư bản, nhưng chưa có sẵn mô hình trong lịch sử nên vừa xây dựng, vừa tìm tòi nên sẽ phức tạp, khó khăn và diễn ra lâu dài. Ở những nước có điểm xuất phát thấp như Việt Nam, từ nước thuộc địa nửa phong kiến giành được độc lập dân tộc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì càng khó khăn, lâu dài, phức tạp. Ðảng ta luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để làm s&aac

Tin khác cùng chủ đề

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để phòng, chống tận gốc tham nhũng, tiêu cực
Xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và vận dụng trong thực hiện Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay

Gửi bình luận của bạn